TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ĐÀO DUY TÙNG TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC Mã số: LUẬ

Similar documents
Microsoft Word - DAI THUA 100 PHAP _hoan chinh_.doc

Microsoft Word - NhanGianDuKi-ISO-A5.doc

語彙リスト_ベトナム語(10Q).indd

bộ khẩu tức là cái miệng. Cái miệng con người phát ngôn ra lời nói nhanh như mũi tên và mũi tên ấy sẽ mang đến cho chúng ta cả điều lợi lẫn điều hại;

平成25年度全国学力・学習状況調査:保護者に対する調査(小学校調査票)ベトナム語版

Contents

2

PTB TV 2018 ver 8

KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG HẬU TẦN TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU-MA-LA-THẬP PHỤNG CHIẾU DỊCH ĐOÀN TRUNG CÒN - NGUYỄN MINH TIẾN Việt dịch và chú giải NGUYỄN MINH H

労災保険外国人向けパンフ第二編_ベトナム語

[PDF] SỔ TAY HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG DỊCH VỤ CHUYỂN TIỀN QUỐC TẾ

日本留学試験の手引き_ベトナム語版

Mục lục Lời mở đầu 1 1 Ba loại tai nạn lao động thường xảy ra trong khi hàn 2 2 Những công việc nhiều tai nạn gây tử vong 2 3 Tai họa và các nghi vấn

HỘI NGỘ ĐÀ NẴNG 2016 CÁM ƠN Ý TƯỞNG VÀ BÀI VỞ CỦA ANH CHỊ CỰU SINH VIÊN ĐHSP HUẾ 2 KHÓA LƯƠNG VĂN CAN VÀ HUỲNH THÚC KHÁNG. CÁM ƠN TRANG BLOG ANH TRẦN

Quả bưởi có nhiều múi, mỗi trái được trung bình khoảng 12 múi. Phân tích 100 gam dịch quả bưởi chín, thu được 89 gam nước, 9 gam glucid, 0,6 gam proti

Khái quát cấu trúc Hệ thống Kiểm soát Tổng tải lượng Ô nhiễm (TPLCS) Chương 1 Tính cần thiết của TPLCS 1.1 Tổng quan về TPLCS Ô nhiễm nước xảy ra khi

CUỘC CÁCH MẠNG MỘT-CỌNG-RƠM MASANOBU FUKUOKA (Bản sách điện tử lần thứ nhất) Biên dịch: XanhShop Lời giới thiệu và hiệu đính: Hoàng Hải Vân Lời giới t

労災保険外国人むけパンフ第一編_ベトナム語i

意識_ベトナム.indd

phihungn_ThaiBinhDiaNhanSuLuoc

1.Khóa tuyển sinh Số học viên Khóa tuyển sinh Thời gian nhập học Số học viên Khoa tiếng nhật Khóa học 1 năm Khoá học 2 năm Tháng 4 40 người (20 người

Heike monogatari là một truyện kể xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII, kể lại cuộc xung đột giữa hai dòng họ có thế lực là họ Taira và họ Minamoto. Xét v

W06_viet01

ĐVT: tấn STT Khối lượng Năm Năm Năm Năm Năm Năm 2008 CTR CTR Công nghiệp 1.991, , , , ,747

THÔNG SỐ KỸ THUẬT BẢN VẼ LẮP ĐẶT Sản phẩm Tối thiểu Áp lực sử dụng (động) Tối đa (tĩnh) Nhiệt độ sử dụng Chất lượng nước sử dụng Vùng thường Nhiệt độ

Student Guide to Japan (Vietnamese Version)

Mùa Khô

La-hán Ba Tiêu Tên của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài vào rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài tr

Tài chính Quan hệ Cộng đồng Quản trị căn bản Pháp lý Các loại rủi ro Dự án Tình hình Tài chính Mục tiêu công ty Giá cả Môi trường - Tử vong - Thương t

Bia 1_VHPG_268_17.indd

Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị thay đổi, sửa chữa những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi e

có 5 hay 7 âm tiết xen kẽ nhau, có thể chia làm hai phần: Thượng cú (kami no ku) Câu 1: 5 âm, Câu 2: 7 âm, Câu 3: 5 âm (5-7-5) Hạ cú (shimo no ku) Câu

プリント

Lịch của toàn khi vực Ngày nghỉ lễ rác vẫn Xin vui lòng chấp hành Xin vui lòng vứt rác tại địa điểm và ngày đã được qui định trước 8:30 buổi sáng! Vứt

Họ và tên Phiếu Chẩn Ðoán Nội Khoa Hãy đánh dấu vào nơi có triệu chứng bị bệnh Nam Năm tháng ngày Nữ Ngày sinh Ðịa chỉ Năm tháng ngày Ðiện thoại Có bả

ĐẠI CHIẾN ĐÔNG NAM Á 1971 Trong Đặc San Canh Dần của ERCT, sempai Lê Văn Phụng có viết bài "Tuổi Học Trò". Trong bài nầy anh kể lại chuyện đánh nhau v

A Điều khoản quan trọng 1. Những điều lưu ý khi ký kết hợp đồng Về phương pháp xác nhận nội dung hợp đồng Khách hàng có thể chọn phương pháp xác nhận

<4D F736F F D208EC08F4B90B6834B E CEA816A2D8D5A90B38DCF2E646F63>

Làm thế nào người Nhậtđã thành công trong các ngành công nghiệp? 1. Định hướng khách hàng 2. Quan niệm về năng suất 3. Thực hành nhữngđiều cơ bản nhất

H˜C VI°N MÁY TÍNH KYOTO


2 Những sách nghiên cứu... Xem thêm : Để làm tài liệu cho quý vị nào quan tâm muốn tìm hiểu thêm, chúng tôi có soạn một tập riêng gồm danh sách những

00

Mục lục Khi nào thì bắt đầu cho bé ăn dặm?... 1 Cức giai đoạn ăn dặm... 1 Đ thô ộà đ mềm c a th c ăn... 2 Th i gian cho bé ăn dặm trong ngày... 4 Bắt

CHƯƠNG TRÌNH Lời chào từ Ban tổ chức Hướng dẫn Học thi Trung Học Phổ Thông Nghỉ giải lao Trả lời câu hỏi Kinh nghiệm học thi từ Sinh viên đã tốt nghiệ

untitled

外国人生徒のための公民(ベトナム語版)

untitled

施策の概要 就学ガイドブック [ヴェトナム語]

(Microsoft Word - Chuong tr\354nh H\340nh Huong Nh?t B?n docx)

untitled

Bento Thiện pp. John K. Whitmore, Chung-hsing and Cheng-t ung in Text of and on Sixteenth-Century Viet Nam. In Keith Taylor and John K. Whitmore, eds.

Microsoft Word - Thuc don an dam cho be 5-15 thang.doc

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Bùi Thanh Phương VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÁ NHÂN TRONG CÁC SÁNG TÁC THỜI KÌ ĐẦU CỦA NATSUME SOS

NGUYỆT SAN CỎ THƠM ONLINE SỐ 12 THÁNG 11, 2018 MỤC LỤC BIÊN KHẢO: TR12- KIM THÚY, NHÀ VĂN NỮ GỐC VIỆT NỔI TIẾNG Ở CANADA - PHẠM VĂN TUẤN TR34 TƯỞNG NH

Văn hóa-lịch sử Huế qua góc nhìn làng xã phụ cận LỊCH SỬ DI CƯ VÀ NGHI LỄ THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA CÁC DÒNG HỌ GỐC HOA Ở HƯƠNG VINH (The history of

Title フエ地域におけるキン族の城隍神とタインフック村の事例 Author(s) チャン, ディン ハン, 福田, 康男 周縁の文化交渉学シリーズ7 フエ地域の歴史と文化 Citation 周辺集落と外からの視点 : Issue Date URL http:

Mục lục 1. Trình tự cho đến khi có thể thực hiện thiết kế CAD 1 2. Thao tác cơ bản 5 3. Thiết kế bệ đỡ Cách xuất ra định dạng stl và cách sử dụn

< F312D30335F834F E696E6464>

-HT Hộ Tông -HT Hộ Nhẫn Cùng các Bậc Trưởng Lão PGNT

MergedFile

untitled

労働条件パンフ-ベトナム語.indd

6 Xem thêm câu áp chót ở phần cuối mục II: Kinh tế không phát đạt và ý thức không khích lệ là hai nguyên nhân đệ nhất của thất bại trong cách mạng của

Microsoft Word - 4. Do Hoang Ngan OK _2_.doc

Ha y luyê n tâ p thông ba o đê n 119. Khi g. p hoa hoa n Trung tâm PCCC: Đây la 119, pho ng cha y va chư a cha y. Hoa hoa n hay Câ p cư u? Ba n : Hoa

資料 3 合格の場合 ( 候補者向け ) 国家試験に合格した EPA 看護師 介護福祉士候補者が EPA 看護師 介護福祉士として就労する際の手続きについて 平成 28 年 2 月 26 日 公益社団法人国際厚生事業団 受入支援部 1. はじめに 経済連携協定 (EPA) に基づき入国をした EPA

Microsoft PowerPoint vn Matsuki-Technical standards [互換モード]

年 2 月 22 日 国家試験に合格した EPA 看護師 介護福祉士候補者が EPA 看護師 介護福祉士として就労する際の手続きについて 公益社団法人国際厚生事業団 受入支援部 1. はじめに 経済連携協定 (EPA) に基づき入国をした EPA 候補者が 看護師国家試験または介護福祉

現代社会文化研究

ベトナム人向けの講義 セミナー 研修映像制作サービスの提供開始について 映像の力でベトナム人従業員 実習生 留学生の学びをサポート 株式会社メディアオーパスプラス OCG Technology Joint Stock Company 株式会社メディアオーパスプラス (

Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai.info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điện

Nguyen Dinh Phuc 代表取締役社長 Nguyen Nhat Anh Thu 副社長 The Interview 現地経営 by タカコベトナム 何度も調整して やっと Thu さんと面談が実現しました 同じ戦後世代ですが 相変わらずエネルギッシュで圧倒されます 同じ留学仲間なので 留学

Lê hô i giao lưu quô c tê Himeji lâ n thư 21 Nga y giơ : 30/10/2016 (Chu nhâ t) 10:00~15:00 (Trơ i mưa vâ n tiê n ha nh) Đi a điê m: Công viên Ohtemae

文理侯陳公補考 蓮田隆志 問題の所在 (2) (1) (1) 1 文理侯陳公碑 Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc về Viện Hàn lâm Khoa hoc Xã hội Việt Nam (2) 29

Bạn Lê Hữu Sở (Agriteck Japan) "Bước tới nước Nhật trong cái lạnh tê tái của mùa đông,mọi thứ như đóng băng lại,bàn tay buốt giá của tôi run cầm cập.m

*3-0 これから 学校の生活についてお話をします Và sau đây, tôi xin nói về sinh hoạt trong trường. 18

Tường chống lũ cấy ghép cọc Nguyên tắc ép cọc tĩnh (The Press-in Principle) Tường bảo vệ cấy ghép cọc Các thành tự trước đây / hiện nay Phòng chống lũ

Như chúng ta sẽ thấy, nhiều phương diện của ngữ pháp tiếng Việt là dễ chứ không khó. Trên thực tế, nói một cách chính xác hơn, tiếng Việt đa phần là m

Abe Industrial Vietnam Nguyen Dinh Phuc 代表取締役社長 高橋馨 社長 The Interview Abe Industrial Vietnam を成長させた秘訣 Bí quyết xây dựng và phát triển Abe Industrial Vi

*4-1 これから 通訳 PTA 活動 子どもの安全と健康を守るためのいろいろな制度のことをお話します Chúng tôi xin nói chuyện về việc thông dịch, hoạt động của hội PTA (hội phụ huynh và giáo viên), c

Microsoft Word - speech.docx

Tuổi khác nhau, trình độ cũng khác nhau, cách dạy và học cũng khác nhau, nhưng đều giống nhau ở lộ trình học. Đầu tiên, các em tập viết, tập phát âm t

Japanese 日本語 脱退一時金は原則として以下の 4 つの条件にすべてあてはまる方が国民年金 厚生年金保険又は共済組合の被保険者資格を喪失し 日本を出国後 2 年以内に請求されたときに支給されます 1 日本国籍を有していない方 2 国民年金の第 1 号被保険者としての保険料納付済期間の月数と保

1 ページ

2 日本語らしい発音 にするには シャドーイング 日本語の発音がもっと上手くなりたい! そのもう一つの方法として シャドーイング があります - シャドーイングとは?- ネイティブの人が読んだ日本語を聞きながら それと同じ文章をそっくりそのまま音読することです - シャドーイングをする時のポイントは

京都教育大学 外国人の子どもの教育を考える会


Chương 1 Công tác an toàn cần cho việc gì? だいあんぜんさ第 1 安全作業 ぎょうは何 なんひつようのために必要か? Sự cần thiết của công tác an toàn 1) Nếu bạn bị thương hay khuyết tật

ベトナム領メコン・デルタ開発の現状とその影響

けんこうわたしの健康カード The i tê cu a tôi - ベトナム語 やさしい日本語 - -Tiê ng Viê t Nam Tiê ng Nhâ t dê - しゃかいふく 社会福 し祉 ほうじん法人さぽうと 2 1 Support21 Social Welfare Foundation

không khí ít bị ô nhiễm vì không có xe gắn máy, nhưng trên tàu người ta dùng cái bịt miệng khẩu trang tránh bệnh truyền nhiễm qua đường hô hấp vì đông

Title Author(s) 日本語とベトナム語における使役表現の対照研究 : 他動詞 テモラウ ヨウニイウとの連続性 Nguyen Thi, Ai Tien Citation Issue Date Text Version ETD URL

技能実習生手帳 ( ベトナム語版 ) SÁCH HƯỚNG DẪN THỰC TẬP SINH KỸ NĂNG (Bản tiếng Việt) 氏名 / Họ tên 所有者 ( 技能実習生氏名 )/ Chủ sở hữu sách (họ tên thực tập sinh kỹ năng) 名

Để tưởng niệm Vĩnh Sính ( ), một nhà Nhật Bản Học tiên phong và người ngưỡng mộ Bashô. 2

脱退一時金請求書 日本から出国される外国人のみなさまへ Vietnamese 脱退一時金は 次のすべての条件に該当するときに請求することができます 国民年金 厚生年金保険又は共済組合の被保険者資格を喪失し 日本に住所を有しなくなった日 から 2 年以内に請求する必要があります 1 日本国籍を有してい

Nguyễn Nguyễn T.C.Q Nguyễn K.V. Truong Nguyễn E. Poisson Trần

注意 脱退一時金を受け取った場合 脱退一時金の計算の基礎となった期間は 日本の年金制度に加入して いた期間 ( 以下 加入期間 という ) ではなくなります 以下の注意書きをよくご覧になり 将来的な年金受給を 考慮したうえで 脱退一時金の請求についてご検討ください 1 老齢年金の資格期間が 10 年

[Bản phát hành năm 2018] Cách phân loại và cách vứt rác gia đình Ngày 01 tháng 04 năm 2018 ~ ngày 31 tháng 03 năm 2019 Rác phải vứt ở bãi tập trung rá

[Bản phát hành năm 2018] Cách phân loại và cách vứt rác gia đình Ngày 01 tháng 04 năm 2018 ~ ngày 31 tháng 03 năm 2019 Rác phải vứt ở bãi tập trung rá

Transcription:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------- Đào Duy Tùng TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC TP. HỒ CHÍ MINH 2012 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------- ĐÀO DUY TÙNG TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trong tổ bộ môn Ngôn ngữ khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô trong tổ bộ môn Ngôn ngữ khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt là những thầy cô đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Dư Ngọc Ngân đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, Phòng sau đại học đã tạo rất nhiều điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa học. Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn quý anh, chị học viên cùng lớp, các đồng nghiệp đã động viên, ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học và làm luận văn. Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn. TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2012 Tác giả

LỜI CAM ĐOAN Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, thu thập số liệu và viết luận văn, người viết đã tham khảo nhiều tài liệu và có ghi chú rõ ràng nguồn trích dẫn. Do vậy, ngoài những trích dẫn được ghi xuất xứ, tôi xin cam đoan rằng toàn bộ những nội dung và số liệu trong luận văn này do tôi tự khảo sát, nghiên cứu và thực hiện. Tác giả

Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục MỤC LỤC DẪN NHẬP... 1 Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN... 8 1.1. Từ gốc Hán và từ Hán Việt... 8 1.2. Phân biệt cách đọc Hán Việt, yếu tố gốc Hán, tiếng Hán Việt, từ Hán Việt... 11 1.3. Khái niệm và nhận diện từ ngữ Hán Việt... 13 1.4. Phân loại từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt... 20 1.4.1. Từ Hán Việt... 20 1.4.2. Ngữ cố định Hán Việt... 22 1.5. Sự khác biệt giữa từ ngữ Hán Việt và từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa... 23 1.5.1. Về sắc thái ý nghĩa... 23 1.5.2. Về sắc thái biểu cảm... 24 1.5.3. Về màu sắc phong cách... 24 1.6. Khái quát về ca dao Nam Bộ... 24 1.6.1. Ca dao Nam Bộ... 25 1.6.2. Ngôn ngữ ca dao Nam Bộ... 25 1.7. Tiểu kết... 28 Chương 2. TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ TRÊN BÌNH DIỆN NGÔN NGỮ... 29 2.1. Đặc điểm về ngữ âm của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ... 29 2.1.1. Từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm toàn dân... 29 2.1.2. Từ ngữ Hán Việt có vỏ ngữ âm phương ngữ hóa... 29 2.1.3. Từ ngữ Hán Việt có hai âm đọc Hán Việt... 31

2.2. Đặc điểm về cấu tạo ngữ pháp của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ... 32 2.2.1. Từ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ... 32 2.2.1.1. Từ đơn Hán Việt... 32 2.2.1.2. Từ ghép Hán Việt... 33 2.2.2. Ngữ cố định Hán Việt trong ca dao Nam Bộ... 40 2.2.2.1. Ngữ định danh Hán Việt... 40 2.2.2.2. Thành ngữ Hán Việt... 40 2.3. Ngữ nghĩa của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ... 43 2.3.1. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình yêu quê hương đất nước... 43 2.3.2. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình yêu nam nữ... 44 2.3.3. Từ ngữ Hán Việt chỉ tình cảm gia đình... 44 2.3.4. Từ ngữ Hán Việt chỉ quan niệm về thế giới, về đạo đức, về cuộc sống, về con người của người Nam Bộ... 46 2.4. Tiểu kết... 48 Chương 3. TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CA DAO NAM BỘ TRÊN BÌNH DIỆN SỬ DỤNG... 50 3.1. Tần số xuất hiện của từ ngữ Hán Việt trong quyển Ca dao dân ca Nam Bộ (có so sánh với Ca dao Nam Trung Bộ và Ca dao Việt Nam)... 50 3.2. Vị trí của từ ngữ Hán Việt trong bài ca dao Nam Bộ... 54 3.3. Chức năng tạo văn bản của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ... 56 3.3.1. Chức năng làm dẫn ngữ trong bài ca dao... 56 3.3.2. Chức năng tạo nội dung chính cho bài ca dao... 63 3.4. Giá trị sử dụng của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ... 65 3.4.1. Từ ngữ Hán Việt tạo sắc thái trang trọng cho ca dao Nam Bộ... 66 3.4.2. Từ ngữ Hán Việt tạo sắc thái trang nhã cho ca dao Nam Bộ... 68 3.4.3. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính khái quát và trừu tượng cho ca dao Nam Bộ... 69 3.4.4. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính hàm súc cho ca dao Nam Bộ... 71

3.4.5. Từ ngữ Hán Việt làm tăng tính thuyết phục cho ca dao Nam Bộ... 82 3.4.6. Từ ngữ Hán Việt có tác dụng gieo vần, tạo nhịp cho ca dao Nam Bộ... 84 3.5. Dùng từ Hán Việt đơn tiết trong ca dao Nam Bộ... 86 3.6. Tiểu kết... 87 KẾT LUẬN... 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO... 92 TÀI LIỆU KHẢO SÁT... 98 PHỤ LỤC

1 DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Ca dao là một thể loại của văn học dân gian Việt Nam, là những sáng tác trữ tình nói lên cảm xúc của con người trong cuộc sống. Mỗi bài ca dao là một tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ, do đó ngôn ngữ ca dao cũng được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Ở Việt Nam, miền nào cũng có ca dao, ca dao của mỗi miền lại có đặc điểm riêng mà rõ nhất là về ngôn ngữ, điều này làm nên tính đặc trưng của ca dao được sưu tầm ở các vùng miền khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Ca dao Nam Bộ là ca dao của người Việt được sưu tầm ở Nam Bộ nên nó mang đặc điểm của vùng đất Nam Bộ, trong đó có việc sử dụng từ ngữ của người dân nơi đây. Ngôn ngữ của ca dao Nam Bộ thường được nói đến là tính chất mộc mạc, giản dị trong cách sử dụng từ ngữ. Tuy nhiên khảo sát ca dao Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy có một hiện tượng là việc sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt trong không ít bài ca dao. Điều này cũng đã được đề cập đến trong một vài công trình nghiên cứu về Việt ngữ học, tuy nhiên mới chỉ ở mức độ khảo sát ban đầu. Tìm hiểu từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi không khỏi thắc mắc tại sao Nam Bộ là vùng đất mới nhưng ca dao Nam Bộ lại sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt đến như vậy. Việc sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt như vậy có đem lại hiệu quả nghệ thuật gì không, hay đó chỉ là một sự ngẫu hứng, tùy tiện về cách dùng từ ngữ trong ca dao Nam Bộ? Những từ ngữ Hán Việt được sử dụng trong ca dao Nam Bộ có những đặc trưng gì về ngữ âm, cấu tạo, ngữ pháp, ngữ nghĩa so với từ ngữ Hán Việt trong vốn từ vựng toàn dân, trong ca dao Việt Nam nói chung và ca dao các vùng miền khác nói riêng? Đó là những vấn đề thú vị, cần được đi sâu nghiên cứu. Vì lẽ đó chúng tôi đã chọn vấn đề Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ làm đề tài nghiên cứu của luận văn cao học. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ca dao Nam Bộ xuất hiện cùng với lịch sử khẩn hoang Nam Bộ vào khoảng thế kỷ XVII. Tuy nhiên, cái mốc khởi đầu của công việc sưu tầm về ca dao Nam Bộ lại bắt đầu vào khoảng cuối thế kỷ XIX năm 1888. Theo Huỳnh Ngọc Trảng: Sáu

2 câu hát được Trương Vĩnh Ký công bố ngay trên số đầu tiên của bộ Micellanées (Imprimerie Commerciale Rey Curiol, 1888) có thể được coi là cái mốc khởi đầu của công việc sưu tầm ca dao Nam Bộ [75; tr.5]. Cũng theo tác giả: Ngoài các câu hát trong Miscellanée (1888) và những câu tục diêu dẫn chứng trong bộ Đại Nam Quốc âm tự vị (1895) thì cuốn Câu hát An Nam của Trương Minh (Ký?) xuất bản ở Sài Gòn, năm 1886 có thể coi là sưu tập ca dao dân ca Nam Bộ đầu tiên. Kế đó, sưu tập câu hát góp Recueill de Chanson populaires (xuất bản lần đầu năm 1897, tái bản lần thứ tư, 1910) của Huỳnh Tịnh Của là sưu tập đáng chú ý khác [75; tr.5]. Đầu thế kỷ XX, cùng với các ấn phẩm thơ, tuồng, truyện, tích (mà đa phần là bổn cũ soạn lại và dịch ra quốc ngữ, các tài liệu Hán Nôm) các sưu tập ca dao cũng được xuất bản ngày càng nhiều hơn [75; tr.5]. Cuối thế kỷ XX cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ được tập thể tác giả: Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị sưu tầm và được xuất bản năm 1984. Có thể nói đây là một công trình có giá trị, đặc biệt đối với những người quan tâm đến ca dao dân ca Nam Bộ. Đến nay, việc sưu tầm và nghiên cứu ca dao Nam Bộ đạt những thành tựu đáng khích lệ, mặc dù chúng ta biết rằng rõ ràng là những gì mà chúng ta sưu tầm được là một phần quá ít ỏi so với những gì đã bị thời gian xóa mờ. Trong suốt thời gian qua, ca dao Nam Bộ là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Từ đó, ca dao Nam Bộ đã từng bước được khám phá và khẳng định vị trí của mình trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nghiên cứu ca dao từ phương diện ngôn ngữ đã có các công trình, bài báo của các tác giả như: Phương ngữ và ca dao dân ca địa phương (Trên cứ liệu của phương ngữ và ca dao dân ca các tỉnh phía Nam) của Trịnh Sâm (Tạp chí Văn học số 5 1986). Trong bài viết, tác giả coi phương ngữ như điều kiện sống còn của ca dao dân ca và nêu một số dấu hiệu mà tác giả gọi là đặc trưng của phương ngữ trong ca dao dân ca địa phương [54; tr.422-423]. Cái đặc trưng của ca dao dân ca ở

3 các tỉnh phía Nam chính là ở phương ngữ, thế nhưng nhiều công trình sưu tầm, biên soạn lại muốn vươn tới một ngôn ngữ thống nhất, nên có phần chủ quan trong việc chỉnh sửa ngôn từ. Đứng trước thực trạng này, tác giả bài nghiên cứu viết: Nếu như các công trình biên soạn trên bình diện cả nước ( ), về mặt ngôn ngữ, phần lớn được biên soạn theo phương ngữ Bắc thì trong các tập sách xuất bản ở các tỉnh phía Nam sau 1975, các yếu tố phương ngữ tuy chưa bị gạt hết, nhưng thái độ đối xử với nó hết sức dè dặt, ở đôi chỗ do công tác sưu tầm biên soạn chưa chu đáo, các nhà làm sách lại gán ghép theo cách nghĩ, cách nói của các phương ngữ khác, và đặc biệt thu nạp khá lớn số lượng ca dao dân ca vốn không phải của địa phương mình [54; tr.423]. Tác giả cũng chỉ ra một số biến thể ngữ âm trong phương ngữ miền Nam nếu đặt vào vị trí tương ứng thì cách gieo vần sẽ khá hoàn chỉnh, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật của câu ca dao dân ca lên rất nhiều. Không dừng lại ở đó, tác giả bài viết còn chỉ ra sắc thái riêng của ngữ khí từ trong ca dao dân ca các miền khác nhau và nêu ra biến thể ngữ âm trong cách phát âm của từng miền trong ca dao dân ca; các tên gọi, sự vật, hiện tượng mới có ở vùng này không có ở vùng khác; các tên gọi khác nhau của các phương ngữ đối với cùng một sự vật hiện tượng; yếu tố chỉ địa danh trong các phương ngữ. Trong bài viết Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ địa danh trong ca dao Nam Bộ (Tạp chí Văn hóa dân gian số 4 1999), tác giả Trần Văn Nam đã khảo sát 1000 lời ca dao trong Ca dao dân ca Nam Bộ và kết quả thu được là 111 lần từ riêng chỉ địa danh xuất hiện [44; tr.49]. Những tên riêng gồm các loại: Những địa danh thuộc địa lý Nam Bộ ( ); những địa danh cách xa vùng địa lý Nam Bộ ( ) và những địa danh gắn với điển tích và lịch sử Trung Quốc cổ đại [44; tr.49]. Theo tác giả, các từ chỉ địa danh trong ca dao Nam Bộ là có ý nghĩa biểu trưng: Nam Vang trong ca dao Nam Bộ là một nơi xa xôi, là biểu trưng cho sự ngăn cách dài lâu. Một khi người tình đi Nam Vang có nghĩa là chia phôi, là sầu ly biệt [44; tr.49]. Tác giả còn cho rằng: Trong ca dao Nam Bộ, những tên riêng gắn với địa danh thuộc Trung Hoa cổ đại hoàn toàn có ý nghĩa biểu trưng. Những tên riêng này luôn xuất hiện với cấu trúc sóng đôi (cấu trúc song song) [44; tr.53]. Cũng trên Tạp

4 chí Văn hóa dân gian số 6 2003, tác giả Trần Văn Nam còn có bài Điển tích trong ca dao Nam Bộ: tiếp nhận và cách tân. Tác giả viết: Điển tích trong ca dao Nam Bộ là bằng chứng của việc văn học viết tác động, ảnh hưởng trở lại đối với văn học dân gian. Về mặt thi pháp, ca dao Nam Bộ đã tiếp thu một đặc điểm thi pháp của thơ Việt Nam trung đại. Về mặt sử dụng, ca dao Nam Bộ dùng câu chữ, những điển tích đã từng xuất hiện trong thơ bác học, những hình tượng nhân vật trong các truyện thơ của dân tộc [45; tr.22]. Tác giả nêu lên vai trò của các nhà Nho trong việc sáng tác, đưa điển tích lấy từ sách kinh điển của Nho giáo, sách chữ Hán nói chung. Giới bình dân đã tiếp thu lại những điển tích đó ở những nhà Nho. Tác giả bài viết nhấn mạnh: Ở Nam Bộ, không hiếm những ông lão không đọc được Hán Việt, không đọc được ngay cả quốc ngữ nhưng vẫn thuộc lòng những câu nói trong Luận ngữ, Mạnh Tử, Đạo đức kinh Điều này còn được chứng minh qua thực tế khảo sát ca dao Nam Bộ. Trong ca dao Nam Bộ có một lượng khá lớn thành ngữ Hán hoặc là một dòng thơ Hán Việt [45; tr.22]. Đặc trưng của việc sử dụng điển tích trong ca dao Nam Bộ chính là ở sự tiếp nhận và cách tân, một số điển tích Trung Hoa đi vào ca dao Nam Bộ đã được bình dân hóa và biểu trưng hóa rất hay, rất Nam Bộ. Nguyễn Phương Châm với bài Từ gốc Hán, Điển tích Hán trong ca dao người Việt ở Nam Bộ (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 6 2001) đã mang đến cho người đọc một cái nhìn sơ lược về lớp từ gốc Hán và điển tích Hán được sử dụng trong ca dao Nam Bộ. Từ việc khảo sát từ gốc Hán, điển tích Hán trong ca dao người Việt ở Nam Bộ, tác giả cho rằng: Từ gốc Hán xuất hiện nhiều đã làm cho ca dao Nam Bộ có cái vẻ trang trọng ở hình thức ; từ gốc Hán đã làm phong phú thêm ngôn ngữ của tình yêu đôi lứa, làm đẹp thêm, thiêng liêng hơn thứ tình cảm vốn đã rất được trân trọng này [9; tr.54]. Về điển tích, tác giả viết: Tuy tần số xuất hiện không cao nhưng những điển cố điển tích Hán đã thêm một lần minh chứng cho nhận định người Nam Bộ ưa sử dụng Hán ngữ và còn lưu giữ được nhiều vốn từ đó trong ca dao. Điển cố điển tích Hán thường được lấy từ các câu chuyện cổ, các tích cổ của Hán [9; tr.56]. Từ đó tác giả đi đến nhận định: Nhìn chung, sự

5 xuất hiện tương đối nhiều của từ gốc Hán, điển cố điển tích Hán đã khiến cho ca dao người Việt Nam Bộ mang màu sắc Nho học [9; tr.56]. Ngoài ra thì tác giả bài viết cũng lý giải việc ca dao Nam Bộ sử dụng nhiều từ gốc Hán và điển tích Hán là do thành phần sáng tác đa dạng, trong đó có những người am tường Hán học; do sự cộng cư giữa người Việt và người Hoa trên đất Nam Bộ; do người Nam Bộ tiến hành vào buổi ban đầu sử dụng chữ quốc ngữ dịch các tác phẩm văn học lịch sử Hán ra tiếng Việt; do lịch sử và do tâm lý, ý thức của người Nam Bộ. Nghiên cứu Các từ đa tiết phương ngữ Nam Bộ trong ca dao, dân ca (Ngôn ngữ & đời sống, số 8, 2011), tác giả Trần Đức Hùng đã thống kê từ địa phương trong ca dao dân ca Nam Bộ. Qua đó tác giả đưa ra bảy mô hình cấu tạo từ đa tiết địa phương Nam Bộ, trong đó có ba mô hình cấu tạo từ láy và hai mô hình cấu tạo từ ghép. Tác giả kết luận: Từ những mô hình trên, chúng tôi thấy các từ đa tiết phương ngữ Nam Bộ cũng được tạo ra từ các kiểu quan hệ tạo từ láy và từ ghép trong tiếng Việt nhưng khác các từ đa tiết trong ngôn ngữ toàn dân là thành phần các yếu tố và kiểu quan hệ liên kết tạo từ giữa các yếu tố đó [27; tr.37]. Trên đây là một số bài viết về ca dao Nam Bộ về mặt ngôn ngữ, do thời gian và điều kiện sách vở có hạn nên chúng tôi có thể không điểm hết được lịch sử nghiên cứu ca dao Nam Bộ. Nhưng qua những gì mà chúng tôi đã đọc được, có thể nói rằng việc nghiên cứu từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ là một vấn đề chưa được nghiên cứu sâu và có hệ thống. Tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, người viết luận văn cố gắng nghiên cứu từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ một cách có hệ thống về mặt ngôn ngữ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng luận văn nghiên cứu là từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ. Phạm vi nghiên cứu là cấu tạo, đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa và hiệu quả sử dụng của lớp từ ngữ này trong ca dao Nam Bộ. 4. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, luận văn hướng vào những mục đích cụ thể sau:

6 Bằng việc thống kê từ ngữ Hán Việt được sử dụng trong ca dao Nam Bộ, người viết khái quát bức tranh về từ ngữ Hán Việt được sử dụng trong ca dao Nam Bộ về cấu tạo, các đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa và cách sử dụng. Trên cơ sở đó, luận văn phân tích, nhận xét về hiệu quả của việc sử dụng từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ. Qua đó luận văn cũng chỉ ra rằng từ ngữ Hán Việt không chỉ xuất hiện trong văn học viết mà còn xuất hiện cả trong văn học truyền khẩu (văn học dân gian). 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5.1. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành được đề tài này, người viết đã sử dụng các phương pháp sau: (i) Phương pháp thống kê ngôn ngữ học: Dựa vào tác phẩm Ca dao dân ca Nam Bộ, luận văn thống kê các từ ngữ Hán Việt được sử dụng theo một số tiêu chí đã được định hướng. (ii) Phương pháp so sánh: Để thấy được đặc điểm của việc dùng từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, chúng tôi đã so sánh ngôn ngữ ca dao Nam Bộ với ngôn ngữ ca dao các vùng miền khác như Bắc Bộ, Trung Bộ. Ngoài ra, luận văn còn đối chiếu từ ngữ Hán Việt với từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa về giá trị sử dụng. (iii) Phương pháp miêu tả: Luận văn miêu tả những ý nghĩa của số liệu thu thập được thông qua kết quả thống kê, khảo sát. Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số phương pháp, thủ pháp bổ trợ khác nữa khi cần thiết như thủ pháp phân tích; phương pháp khái quát, tổng hợp 5.2. Nguồn ngữ liệu Nguồn ngữ liệu nghiên cứu được khảo sát, thống kê trong sách Ca dao dân ca Nam Bộ của tập thể tác giả: Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1984. 6. Ý nghĩa của đề tài Ý nghĩa lý luận: Luận văn đề cập đến một lớp từ ngữ vay mượn đặc sắc trong tiếng Việt được sử dụng không chỉ trong văn học viết mà còn trong cả văn học

7 dân gian, qua đó góp phần tìm hiểu ngôn ngữ ca dao nói chung và ngôn ngữ ca dao Nam Bộ nói riêng. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài làm sáng rõ về ngôn ngữ ca dao Nam Bộ và góp phần khẳng định việc sử dụng ngôn ngữ bác học vào trong thể loại văn học dân gian một cách khéo léo, vừa phải, hợp lí sẽ mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Đề tài nghiên cứu này sẽ có đóng góp nhất định trong việc tìm hiểu từ ngữ Hán Việt và việc giảng dạy văn học dân gian (phần ca dao dân ca) trong nhà trường. 7. Bố cục luận văn Luận văn gồm dẫn nhập, nội dung chính và kết luận. Phần nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chuơng: Trong chương 1, luận văn trình bày những cơ sở lý luận về từ ngữ Hán Việt như: phân biệt từ gốc Hán và từ Hán Việt; phân biệt cách đọc Hán Việt, yếu tố gốc Hán, tiếng Hán Việt, từ Hán Việt; trình bày khái niệm, cách nhận diện và phân loại từ ngữ Hán Việt; nêu ra một vài khác biệt giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa; ngoài ra, trong chương này luận văn cũng trình bày khái quát về ca dao Nam Bộ và ngôn ngữ ca dao Nam Bộ. Trong chương 2, luận văn miêu tả, phân tích đặc điểm của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ ở các khía cạnh: đặc điểm về ngữ âm, đặc điểm về cấu tạo ngữ pháp và các phạm trù nghĩa biểu hiện chủ yếu của từ ngữ Hán Việt. Trong chương 3, luận văn khảo sát, phân tích đặc điểm sử dụng của từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ: về tần số sử dụng, vị trí và chức năng sử dụng của từ ngữ Hán Việt và giá trị sử dụng của từ ngữ Hán Việt.

8 Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN Để thực hiện đề tài này, trước hết cần xác định rõ một số khái niệm liên quan sẽ được sử dụng trong luận văn. Trên cơ sở trình bày kết quả nghiên cứu của những công trình đi trước, người viết đi đến lựa chọn những quan niệm làm cơ sở cho việc thực hiện đề tài này. 1.1. Từ gốc Hán và từ Hán Việt Trong một công trình nghiên cứu về Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, Lê Đình Khẩn viết: Có thể nói, trong lãnh vực nghiên cứu lớp từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, Maspéro và Vương Lực là những người xứng đáng được ghi công đầu. Kết quả nghiên cứu của hai ông đã tạo cơ sở cho các nhà Việt ngữ học Việt Nam sau này [36; tr.5-6]. Theo Lê Đình Khẩn: Có lẽ ông (Maspéro) là người đầu tiên tiến hành thống kê và công bố số lượng từ Hán trong tiếng Việt. Với tỉ lệ 60% từ Hán trong tiếng Việt, ông đã tưởng tiếng Việt là một nhánh của cái gốc Hán Tạng [36; tr.5]. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Vương Lực, nhà Hán ngữ học người Trung Quốc góp phần đặt nền móng cho việc nghiên cứu lớp từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt. Kết hợp các cứ liệu lịch sử với các ngữ liệu về tiếng Hán, tiếng Việt, Vương Lực đã chia từ Hán (từ đơn) trong tiếng Việt ra thành ba loại gọi là Hán Việt cổ, Hán Việt và Hán Việt Việt hóa. Ở Việt Nam, Nguyễn Tài Cẩn với công trình Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt (1979) đã chia cách đọc Hán Việt thành: cách đọc Hán Việt cổ (tiền Hán Việt), cách đọc Hán Việt đời Đường (cách này còn lưu lại cho đến nay và gọi là cách đọc Hán Việt), cách đọc Hán Việt Việt hóa và cách đọc Hán Việt thông qua một phương ngữ Hán. Hiện nay, các nhà Việt ngữ học có nhiều cách lý giải khác nhau về từ gốc Hán và từ Hán Việt. Trước hết, với tư cách là thuật ngữ ngôn ngữ học, từ Hán Việt được giải thích là: Từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, đã nhập hệ vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt; còn gọi là từ Việt gốc Hán. Ví dụ: chính phủ, quốc gia,

9 giang sơn, nhân dân, tổ quốc, xã tắc [76; tr.369]. Như vậy, theo lời giải thích của các tác giả Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học thì từ Hán Việt và từ gốc Hán là một. Nguyễn Ngọc San cũng nhận định: Lúc đầu nhiều người còn cho rằng từ Việt gốc Hán chỉ bao gồm từ Hán Việt [53; tr.141]. Nhưng, theo một số nhà nghiên cứu khác thì từ Hán Việt và từ gốc Hán có sự phân biệt nhau. Nguyễn Ngọc San [53] không đồng nhất từ gốc Hán và từ Hán Việt, các từ gốc Hán được tác giả chia thành ba loại: từ tiền Hán Việt, từ Hán Việt và từ Hán Việt hóa. Như vậy, theo tác giả thì từ Hán Việt chỉ là một bộ phận của từ gốc Hán. Nguyễn Văn Tu căn cứ vào ngữ âm và thời gian du nhập đã phân biệt 3 loại từ gốc Hán: từ Hán cổ, từ gốc Hán mượn của đời Đường và từ gốc Hán đã Việt hóa. Trong đó, từ gốc Hán mượn của đời Đường chính là từ Hán Việt: Những từ gốc Hán mà người ta thường gọi là từ Hán Việt gồm một hệ thống những từ Hán cần thiết cho việc giao tế lúc đó nhất là trong ngôn ngữ viết [71; tr.282]. Cũng căn cứ vào thời gian du nhập, Đỗ Hữu Châu chia quá trình thâm nhập của tiếng Hán thành hai thời kỳ: thời kỳ trước và thời kỳ sau cuộc đô hộ của triều đại nhà Đường. Tác giả cho rằng: Các từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt vào thời kỳ trước được phát âm theo hệ thống ngữ âm Hán cổ, khác với hệ thống ngữ âm Hán Việt thâm nhập vào thời kỳ sau Những từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt từ cuộc đô hộ của nhà Đường thì được phát âm căn bản như âm Hán Việt hiện nay [8; tr.225]. Nguyễn Thiện Giáp phân từ ngữ gốc Hán thành 2 loại: các từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Hán Việt (gọi tắt là từ Hán Việt) và các từ ngữ gốc Hán không đọc theo âm Hán Việt. Tác giả lập luận: Vì người ta có thể đọc tất cả các chữ Hán (cổ đại cũng như hiện đại) theo cách đọc Hán Việt cho nên cần phân biệt từ gốc Hán trong tiếng Việt và các từ Hán đọc theo âm Hán Việt [19; tr.242]. Từ Hán Việt hay từ gốc Hán đều là cách đọc chữ Hán của người Việt, tuy nhiên cách đọc đó được hình thành ở các giai đoạn khác nhau trong lịch sử. Các tác giả Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt chia quá trình tiếp xúc Hán Việt thành hai giai đoạn lớn: một là giai đoạn từ đầu Công nguyên đến đầu đời

10 Đường (đầu thế kỷ VIII); hai là giai đoạn từ đời Đường (thế kỷ VIII thế kỷ X) trở về sau. Hai lần tiếp xúc lớn này cung cấp cho từ vựng tiếng Việt hai nguồn từ gốc Hán mà như trước nay vẫn quen gọi là từ Hán cổ và từ Hán Việt [11; tr.213-214]. Ngoài ra, có một nhóm được du nhập vào tiếng Việt thông qua con đường khẩu ngữ của những người nói phương ngữ tiếng Hán như: xì dầu, mì chính, vằn thắn, xá xíu, sủi cảo, lẩu lục tào xá, tào phớ, chí ma phù, bát bảo lường xà cũng được các tác giả gọi là những từ gốc Hán. Trong công trình Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nguyễn Văn Khang chia từ ngoại lai thành: từ mượn Hán, từ mượn tiếng Pháp và từ tiếng Anh sử dụng trong tiếng Việt. Từ mượn Hán được phân chia theo các góc nhìn khác nhau: (i) từ góc độ cội nguồn, (ii) theo dòng thời gian của sự vay mượn, (iii) từ góc độ con đường vay mượn, (iv) từ góc độ đồng hóa, (v) từ góc độ sử dụng và (vi) từ góc độ chức năng. Cách phân chia phổ biến là theo dòng thời gian của sự vay mượn, Nguyễn Văn Khang viết: Theo dòng thời gian của sự vay mượn có thể tách từ mượn Hán thành ba loại: từ tiền Hán Việt, từ Hán Việt và từ hậu Hán Việt [32; tr.92]. Tác giả Lê Đình Khẩn [36] trong công trình Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, từ góc độ lịch sử cũng đã chia từ gốc Hán trong tiếng Việt thành: từ tiền Hán Việt, từ Hán Việt và từ hậu Hán Việt. Diệp Quang Ban thì lại cho rằng: Không phải mọi từ mượn từ tiếng Hán đều là từ Hán Việt. Từ Hán Việt nói ở đây là từ mượn gốc Hán và đọc theo âm Hán Việt. Như vậy là, những từ mượn từ tiếng Hán trước đời Đường như: buồng, buồm, ngà, đìa, chém. v.v và những từ mượn theo con đường khẩu ngữ (nói theo âm Trung Quốc bây giờ) như: tài xế, mì chính, vằn thắn không được coi là từ Hán Việt [Diệp Quang Ban (chủ biên) (1999), TiếngViệt 6 nâng cao, Nxb GD, HN, tr. 36 (dẫn theo Đặng Đức Siêu [56; tr. 9-10]). Trần Trí Dõi [15] trong Giáo trình Lịch sử tiếng Việt cũng phân chia từ gốc Hán trong tiếng Viêt thành: từ cổ Hán Việt hay Hán Việt cổ, từ Hán Việt, từ Hán Việt Việt hóa.

11 Như vậy, hầu hết các tác giả đều phân biệt từ gốc Hán và từ Hán Việt, từ Hán Việt chỉ là một bộ phận của từ gốc Hán là quan điểm được đông đảo các nhà nghiên cứu đồng tình. Các từ gốc Hán nói chung và từ Hán Việt nói riêng có vị trí rất quan trọng trong từ vựng tiếng Việt. Về mặt số lượng, chúng chiếm hơn phân nửa tổng số từ trong tiếng Việt (khoảng 60%); về mặt chất lượng, chúng tham gia vào mọi lĩnh vực giao tiếp của đời sống người Việt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học, pháp luật, y học, ngoại giao Vì thế lớp từ này luôn được sự quan tâm thích đáng đối với các nhà nghiên cứu, tìm hiểu về tiếng Việt. Ngoài hai cách hiểu nêu trên về từ gốc Hán và từ Hán Việt, trong Việt ngữ học hiện nay còn có một số khái niệm như cách đọc Hán Việt, từ Hán Việt, tiếng Hán Việt, yếu tố gốc Hán cũng chưa có sự thống nhất, gây không ít khó khăn cho người học. 1.2. Phân biệt cách đọc Hán Việt, yếu tố gốc Hán, tiếng Hán Việt, từ Hán Việt Cách đọc Hán Việt thường được giải thích là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam, theo lối đọc riêng của người Việt. Theo Nguyễn Tài Cẩn: Cách đọc Hán Việt là một cách đọc vốn bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường, mà cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào giai đoạn bao gồm khoảng hai thế kỷ VIII, IX; nhưng cách đọc theo Đường Âm đó, sau khi Việt Nam giành được độc lập, đã dần dần biến dạng đi, dưới tác động của quy luật ngữ âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt, tách xa hẳn cách đọc của người Hán để trở thành một cách đọc riêng biệt của người Việt và những người thuộc khu vực văn hóa Việt. Đây là một cách đọc tạo thành hệ thống, nghĩa là trên lý thuyết có thể dùng để đọc toàn bộ kho tàng các ký hiệu văn tự Hán, với khả năng gần như cách đọc của bản thân người Hán; nhưng đây lại là một cách đọc độc lập, có đặc trưng riêng, chức năng riêng và có cả một lịch sử diễn biến của riêng mình [5; tr.14-15]. Yếu tố gốc Hán là những yếu tố đã được du nhập vào trong tiếng Việt, những yếu tố này có thể liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với văn tự Hán. Chẳng hạn, những yếu tố người Việt có thể liên hệ trực tiếp ngay với một chữ Hán như 國 quốc, 家 gia,

12 山 sơn, 水 thủy, hay những yếu tố không gây ra sự liên hệ như thế, ví dụ mùa (vốn do vụ mà ra), gần (vốn do cận mà ra), hoặc mỳ chính (vốn do vị tinh mà ra) v.v. [5; tr.15]. Như vậy, nếu khái niệm cách đọc Hán Việt nặng về ngữ âm thì khái niệm yếu tố gốc Hán nặng về từ vựng; yếu tố gốc Hán là yếu tố mà người Việt mượn từ tiếng Hán, nhưng những yếu tố đó lại không trực tiếp liên quan gì đến cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn chia yếu tố gốc Hán làm ba trường hợp: (i) Trường hợp mượn trước cách đọc Hán Việt như mùa, mùi, buồng, buồm (ii) Trường hợp mượn đời Đường, cùng một lần với cách đọc Hán Việt, nhưng sau diễn biến theo một con đường khác với cách đọc Hán Việt. Ví dụ gan, gần, vốn, ván (iii) Trường hợp mượn thông qua một phương ngữ tiếng Hán, ví dụ, mỳ chính, cắc, lú bú... [5; tr.16]. Yếu tố Hán Việt là những yếu tố mượn từ tiếng Hán, nhưng đó là những yếu tố được mượn thông qua cách đọc Hán Việt, chẳng hạn, 山 sơn, 水 thủy, 國 quốc, 前 tiền, 後 hậu v.v. Xét về mặt ngữ pháp, có thể chia các yếu tố Hán Việt thành trường hợp chỉ là tiếng, nhưng không phải là từ (chẳng hạn: quốc, gia, sơn, thủy) và trường hợp vừa là tiếng, vừa là từ (chẳng hạn: tuyết, cao, học). Tiếng Hán Việt là đơn vị dùng để cấu tạo từ Hán Việt, nó không đứng một mình, cũng không độc lập tham gia cấu tạo câu, chẳng hạn: quốc, gia, sơn, thủy v.v. Từ Hán Việt là đơn vị có thể dùng độc lập và trực tiếp dùng để cấu tạo câu. Nhưng do đặc điểm loại hình, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính nên đa phần tiếng thường trùng với từ, chẳng hạn, xuân, hạ, thu, đông, tuyết, cao, học v.v. Đây là vấn đề còn đang gây tranh cãi trong tiếng Việt. Như vậy, cách đọc Hán Việt là khái niệm nặng về ngữ âm, là cách đọc chữ Hán của người Việt, do đó nó liên quan trực tiếp đến văn tự Hán. Yếu tố gốc Hán là khái niệm nặng về từ vựng, nó có thể liên quan trực tiếp đến cách đọc chữ Hán của người Việt, cũng có thể không liên quan gì đến văn tự Hán (như trên đã nói). Khác với yếu tố gốc Hán, yếu tố Hán Việt là những yếu tố mượn thông qua cách đọc Hán

13 Việt. Điểm giống nhau giữa yếu tố Hán Việt và cách đọc Hán Việt là đều liên quan đến văn tự Hán. Tiếng Hán Việt và từ Hán Việt nằm trong yếu tố Hán Việt, xét về mặt ngữ pháp. 1.3. Khái niệm và nhận diện từ ngữ Hán Việt 1.3.1. Khái niệm từ ngữ Hán Việt Bàn về từ Hán Việt, Nguyễn Văn Khang đã nhận định thật xác đáng rằng: Cho đến nay, khái niệm từ Hán Việt dường như mới chỉ được xác định về mặt lí thuyết mà vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ trong thực tế và đó cũng là lí do giải thích vì sao việc xác định một danh sách từ Hán Việt cụ thể vẫn chưa thể thực hiện được [32; tr.99]. Thật vậy, từ ngữ Hán Việt thường được hiểu chung chung là từ ngữ vay mượn của tiếng Hán, nhưng lại phát âm theo cách phát âm Hán Việt, lối phát âm riêng của người Việt. Nhưng trên thực tế, chưa có cơ sở khoa học nào chứng minh được hệ thống ngữ âm lịch sử của tiếng Việt và tiếng Hán, cho nên khái niệm từ Hán Việt vẫn mang tính ước đoán. Có một điều cần khẳng định là từ ngữ Hán Việt nói riêng và từ ngữ gốc Hán nói chung đã được chú ý nghiên cứu từ mấy chục năm trở lại đây và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Ở đây cần phân biệt một số khái niệm: từ tiền Hán Việt (từ Hán cổ), từ Hán Việt, từ Hán Việt Việt hóa, từ truyền khẩu gốc Hán. Từ tiền Hán Việt hay còn gọi là từ Hán cổ là những từ gốc Hán du nhập vào Việt Nam từ trước đời Đường chủ yếu thông qua con đường khẩu ngữ và được du nhập một cách lẻ tẻ, chưa có hệ thống. Về mặt âm đọc, từ tiền Hán Việt được mô phỏng theo âm Hán Thượng cổ. Ở giai đoạn này, hệ thống tiếng Việt còn thiếu từ ngữ biểu đạt nên từ tiền Hán Việt được Việt hóa cao độ để bù đắp vào chỗ thiếu hụt trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Và cũng chính vì chúng được Việt hóa cao độ nên dần dần người Việt hiện đại không còn nhận ra được nguồn gốc vay mượn của chúng, xem chúng là những từ thuần Việt. Chúng cũng giữ vai trò quan trọng trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, được người Việt sử dụng rộng rãi, phổ biến. Chẳng hạn, những từ như buồng, buồm, bùa, bụt, mùa, mây v.v.

14 Còn về từ Hán Việt, Nguyễn Ngọc San cho rằng: Khác với từ tiền Hán Việt được du nhập một cách lẻ tẻ và đọc mô phỏng theo âm Hán Thượng cổ, lớp từ Hán Việt được du nhập một cách ồ ạt và tạo thành một hệ thống ngữ âm riêng. Âm Hán Việt là âm đọc của tất cả các từ Hán được Việt hóa theo một con đường như nhau, xuất phát điểm của nó là âm Hán Trung cổ ở các thế kỉ VIII, IX, trước thời tự chủ ít lâu. Âm này được Việt hóa từ đầu thời tự chủ (thế kỉ X) khi tiếng Hán đã mất tính cách là một sinh ngữ nên tuân theo những quy luật ngữ âm tiếng Việt và phụ thuộc vào bộ máy cấu âm của người Việt [53; tr.155]. Trong công trình Văn phạm Việt Nam (Giản dị và thực dụng), Bùi Đức Tịnh [62] đã nêu một cách hiểu đơn giản hơn về từ Hán Việt như sau: Có thể định nghĩa một cách giản dị rằng tiếng Hán Việt là những tiếng Hán phát âm theo lối Việt. Ban đầu nó là những chữ Hán mà khi học trong sách Trung Hoa, các nhà tri thức nước ta đọc trại đi theo giọng Việt.... Hầu hết các tác giả đều thống nhất từ Hán Việt là lớp từ tiếng Việt mượn tiếng Hán, đọc theo âm Hán Việt. Cách đọc này có từ đời Đường, là kết quả trực tiếp của sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng Trung Quốc đời Đường, với tiếng Việt cùng thời điểm. Sau đời Đường, hầu hết các từ mượn Hán qua con đường sách vở được người Việt đọc theo cách này và đi vào kho từ vựng tiếng Việt được coi là từ Hán Việt. Từ Hán Việt Việt hóa, xét về mặt thời điểm hình thành thì chúng xuất hiện sau từ Hán Việt, sau khi âm Hán Việt hình thành và trở nên một hệ thống ngữ âm tương đối ổn định thì trong tiếng Việt vẫn tiếp tục xảy ra những sự biến đổi ngữ âm. Những biến đổi này không tác động đồng loạt vào tất cả những bộ phận của âm Hán Việt, vì hệ thống ngữ âm Hán Việt lúc này đã ổn định, nên chỉ tác động vào những đơn vị lẻ tẻ. Các từ Hán Việt khi nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt đã chịu sự tác động của quy luật biến đổi ngữ âm của tiếng Việt. Vì vậy, khiến một số từ đã thay đổi diện mạo của mình, không giống với dạng ngữ âm Hán Việt ban đầu nữa. Dạng ngữ âm Hán Việt của từ có khi vẫn tồn tại trong tiếng Việt, tạo nên những cặp

15 từ song song tồn tại. Chẳng hạn, những cặp từ như các gác, can gan, đao dao, đình dừng, lực sức v.v. Từ gốc Hán mô phỏng theo phương ngữ Trung Quốc (còn gọi là từ truyền khẩu gốc Hán), lớp từ này được du nhập vào tiếng Việt chủ yếu bằng con đường khẩu ngữ của những người nói phương ngữ tiếng Hán. Loại này có số lượng ít, không thành hệ thống, không mang tính phổ thông, chẳng hạn, bò bía, xí quách, xì dầu, cháo quẩy, thèo lèo, lạp xưởng, xương xáo, số dách, mỳ chính, tàu hủ, há cảo. Như vậy, có thể nói rằng từ ngữ Hán Việt là từ ngữ được đọc theo âm Hán Việt, xuất phát điểm là âm Hán Trung cổ ở các thế kỉ VIII, IX đọc theo âm chuẩn ở Trường An lúc bấy giờ. Không nên nói rằng từ ngữ Hán Việt là từ Việt gốc Hán, điều này đúng nhưng chưa đủ, vì từ ngữ Hán Việt còn bao gồm cả những từ vốn không phải là gốc Hán, mà do người Hán mượn một ngôn ngữ khác, rồi người Việt vay mượn lại và đọc theo âm Hán Việt như các từ Hán Việt khác. Chẳng hạn, những từ như trường hợp, kinh tế, cộng hòa có nguồn gốc từ tiếng Nhật Bản; phật, nát bàn, Di Lặc có nguồn gốc từ tiếng Phạn. Ngoài ra, từ ngữ Hán Việt còn bao gồm những từ do người Việt tạo ra nhưng sử dụng yếu tố cấu tạo có nguồn gốc Hán, chẳng hạn, y sĩ, đại đội, tiểu đoàn, thiếu tá. 1.3.2. Nhận diện từ ngữ Hán Việt Từ ngữ Hán Việt chiếm số lượng rất lớn trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, song việc nhận diện chúng lại là một việc làm không đơn giản. Sau khi du nhập vào tiếng Việt, từ ngữ Hán hầu hết đều có sự biến đổi ở những mức độ khác nhau: Với nhiều dáng vẻ, chúng đã xen lẫn vào trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, rất nhiều trường hợp khó có thể phân định ranh giới giữa từ ngoại lai và từ vốn có [36; tr.59]. Tiếng Việt và tiếng Hán đều là những ngôn ngữ đơn lập, âm tiết tính. Nét tương đồng về mặt loại hình cộng thêm sự Việt hóa cao độ đã làm cho những đơn vị vay mượn Hán nhanh chóng nhập hệ vào hệ thống tiếng Việt, gây không ít trở ngại cho việc xác định ranh giới rạch ròi. Nhận diện từ ngữ Hán Việt là thao tác đầu tiên nhưng lại rất quan trọng trước khi muốn đưa ra bất cứ nhận định nào về các đơn vị này. Các nhà nghiên cứu

16 thường dựa vào chữ Hán và âm đọc Hán Việt làm xuất phát điểm để nhận diện từ ngữ Hán Việt. Đây là cách làm mang tính phương pháp luận để xem xét các từ ngữ Hán Việt trong các văn bản tiếng Việt, bao gồm cả văn bản Hán Nôm lẫn văn bản Latinh hóa. Theo Lê Đình Khẩn: Đối với văn bản viết bằng chữ Nôm thì thao tác này, nói chung, tương đối thuận lợi. Còn đối với loại văn bản đã Latinh hóa, tức là văn bản chữ quốc ngữ, thì còn phải thêm một bước khác, bước phục nguyên, bước quy đổi các âm tiết, các tiếng ra dạng viết ban đầu của nó, dạng viết mà chủ yếu qua đó tiếng Việt đã vay mượn được từ Hán: chữ Hán. Nói cách khác, âm đọc Hán Việt và chữ Hán có thể xem là dấu hiệu ban đầu để nhận biết phần lớn từ gốc Hán [36; tr.62-63]. Tuy nhiên, khi du nhập vào tiếng Việt, cái cấu trúc một thể ba ngôi vốn có trong tiếng Hán: âm, hình, nghĩa không còn nữa. Tiếng Việt chỉ mượn âm, nhưng âm cũng rất đa dạng, nghĩa cũng được mở rộng, thu hẹp, biến đổi rất phong phú; đặc biệt, những từ mượn của tiếng Hán trong tiếng Việt hiện nay đều không mượn hình. Từ một thể ba ngôi trong ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích không còn nguyên dạng, do đó trên thực tế, nhận diện từ ngữ Hán Việt là rất khó khăn. Càng khó khăn hơn đối với đại đa số những người không am tường chữ Hán. Vì vậy, ngoài sự hiểu biết ít ỏi về vốn từ Hán Việt được học trong nhà trường, người học phải xuất phát từ cảm thức ngôn ngữ để nhận diện từ ngữ Hán Việt như đề xuất của tác giả Phan Ngọc (1992). Tác giả đi tìm cái ấn tượng Hán Việt trong tâm hồn tôi (tr.9) và cho rằng: Người bình thường nói năng và viết lách không hề quan tâm đến lịch sử. Anh ta nói và viết dựa vào cái cảm thức ngôn ngữ của mình. Anh ta cảm thấy từ này thuần Việt, từ kia Hán Việt, từ này dễ hiểu, từ kia khó hiểu, từ này nghe sang trọng, từ kia nghe quá mộc mạc, từ này nghe kêu, từ kia ít âm hưởng nghe không kêu, từ này nghe buồn, từ kia nghe vui v.v Những ấn tượng ấy rất mơ hồ, nhưng có thực [48; tr.9-10]. Cách đề xuất của Phan Ngọc mang tính cảm tính nhiều hơn là khoa học, bởi đây là mẹo. Tác giả Lê Anh Hiền cho rằng: Cho đến nay, gần như chưa có một tiêu chí nào để có thể giúp phân biệt được từ Hán Việt với từ thuần Việt, trừ khi chỉ nói chung chung từ Hán Việt là một từ mượn của tiếng Hán. Tác giả còn khẳng định:

17 Nói chung, đối với những người không có chút hiểu biết gì về chữ Hán mà yêu cầu họ chỉ ra từ nào là từ Hán Việt là một việc rất khó (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn [69; tr.45]. Tác giả cũng đã nêu một số mặt biểu hiện của từ Hán Việt giúp nhận biết từ Hán Việt trong dòng ngữ lưu như sau: 1. Về ý nghĩa: từ Hán Việt là những từ tiếng Việt thường phải được giải nghĩa thì mới hiểu chúng một cách thấu đáo. Ví dụ, đồng bào: người cùng ruột thịt với nhau (cùng một bọc sinh ra) v.v 2. Về mặt cấu tạo: theo đặc điểm cấu tạo danh từ của tiếng Hán thì yếu tố phụ đặt trước yếu tố chính, ngược với trật tự cấu tạo từ tiếng Việt. Thí dụ: mĩ nhân (mĩ: đẹp, nhân: người). 3. Về phương diện ngữ cảm: các từ Hán Việt thường có sắc thái trang trọng, tao nhã (xem Nguyễn Đức Tồn [69; tr.45-46]). Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn: 2 trong số 3 tiêu chí nêu trên để nhận diện từ Hán Việt thuộc về nội dung ngữ nghĩa của từ. Còn tiêu chí cấu tạo từ thì chỉ áp dụng được cho danh từ mà không áp dụng được cho động từ (có cấu trúc động + bổ kiểu như: ái quốc, thất tình v.v.) [69; tr.46]. Trong bài viết của mình, với mục đích giúp cho học sinh nhận diện và phân biệt được các tiếng Hán Việt nói chung, từ đơn Hán Việt nói riêng với các tiếng và từ đơn thuần Việt, Nguyễn Đức Tồn đã chủ trương dựa vào đặc điểm cấu tạo âm thanh (tức là các kết hợp âm có trong chúng). Từ đó, tác giả phân thành ba loại như sau: Loại thứ 1: Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở các tiếng (hoặc từ đơn) Hán Việt: Bất cứ tiếng nào trong tiếng Việt có chứa các kết hợp âm sau đây thì đều là tiếng Hán Việt (hoặc từ đơn Hán Việt). - uyên (trừ ngoại lệ nguyền, chuyền, chuyện), thí dụ: duyên, tuyên, quyến v.v. - uyết, thí dụ tuyệt, quyết, tuyết, tuyệt, thuyết v.v. - ưu, thí dụ: cửu, cừu, cứu, bưu, bửu, ngưu v.v. - uy, thí dụ: tuy, tùy, tủy, túy, quý, quỷ, quy v.v.

18 Câu văn để ghi nhớ giúp nhận diện tiếng (hoặc từ đơn) Hán Việt: nguyện quyết cứu nguy Bất cứ tiếng (hoặc từ đơn) nào có chứa vần của 4 từ trong câu trên dù có âm đầu hoặc mang thanh điệu nào cũng đều là Hán Việt, trừ một vài ngoại lệ. Loại thứ 2: Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở tiếng (hoặc từ đơn thuần Việt): - Mọi tiếng có kết hợp âm ết đều là thuần Việt (trừ ngoại lệ: kết là Hán Việt). - Mọi tiếng có kết hợp âm ưng đều là thuần Việt (ngoại trừ ưng, ứng, ngưng là Hán Việt). Những tiếng nào có âm đầu là [r] thì đều là thuần Việt Thí dụ ro, rò, rỉ, rả, rẻ v.v. Loại thứ 3: Các cấu tạo âm thanh có ở cả tiếng Hán Việt lẫn tiếng thuần Việt: Thí dụ: Đối với kết hợp âm : - tâm, tẩm cẩm, lâm: Hán Việt - lầm, bầm, gấm, lấm v.v.: thuần Việt [69; tr.48-49]. Ngoài ra, đối với trường hợp các tiếng (hoặc từ đơn) có chứa những kết hợp âm có thể là Hán Việt hoặc thuần Việt thì dùng 3 ba tiêu chí mà Lê Anh Hiền nêu ở trên để nhận diện. Tác giả Nguyễn Đức Tồn còn đưa ra một thủ pháp khác nữa là: Một tiếng nếu đứng riêng một mình thì rất khó xác định là thuần Việt hay Hán Việt. Để xác định ta thử tìm xem có từ ghép Hán Việt nào trong thành phần có chứa tiếng đó hay không. Nếu tìm được thì tiếng được chứa trong từ ghép Hán Việt ấy cũng chính là Hán Việt [69; tr.48-49]. Đối với các từ song tiết là từ ghép Hán Việt, Nguyễn Đức Tồn đưa ra hai tiêu chí: - trật tự yếu tố: yếu tố chính đứng sau yếu tố phụ: hải quân, không phận, chiến thuyền v.v. - ý nghĩa của từ khái quát, trang trọng (so với từ thuần Việt nếu có). Thí dụ: Để xác định tiếng phận là Hán Việt hay thuần Việt, chúng ta thấy kết hợp âm ân có cả trong tiếng Hán Việt lẫn tiếng thuần Việt cho nên buộc ta phải dùng quy tắc cấu

19 tạo từ. Do ta tìm được trong từ vựng tiếng Việt có từ hải phận (hoặc không phận), trật tự các yếu tố phụ + chính, cho nên hải phận, không phận là những từ Hán Việt. Từ đây có thể rút ra kết luận rằng phận là tiếng Hán Việt [69; tr.49]. Nhận diện từ Hán Việt nói chung, từ ngoại lai nói riêng, Phan Ngọc chỉ thừa nhận từ từ song tiết trở lên. Tác giả Viết: Bất kỳ âm tiết nào có thể hoạt động làm thành từ đơn tiết đều được xem là từ thuần Việt. Nói khác đi, theo cảm thức ngôn ngữ của người Việt, nghe một từ đơn tiết thì ngay lập tức người Việt cấp cho nó danh hiệu từ thuần Việt, sự phân biệt giữa thuần Việt với Hán Việt hay ngoại lai chỉ bắt đầu từ từ song tiết trở lên mà thôi [48; tr.10-11]. Tác giả còn khẳng định rằng: Khi chúng tôi nói hễ là từ đơn tiết thì đó là từ thuần Việt tức là chúng tôi công thức hóa: Từ đơn tiết (hình thức) = thuần Việt (nội dung) [48; tr.11]. Đối với các từ đa tiết Hán Việt, tác giả lấy căn cứ dễ hiểu hay khó hiểu để nhận diện chúng còn là từ Hán Việt hay đã thành từ Việt nhờ hai tiêu chí là: 1) vị trí của âm tiết Hán Việt đứng trước tổ hợp là âm tiết A hay âm tiết B 1 và 2) trật tự - cấu trúc tổ hợp ngược hay xuôi (tức là, nói về các tổ hợp chính phụ có kết hợp theo kiểu AB xuôi hay BA ngược). Cụ thể: Những từ Hán Việt có công thức AA và AB theo trật tự của tiếng Việt (trật tự xuôi) sẽ được coi là từ thuần Việt, chẳng hạn: chúc thọ, hung bạo, độc ác; đối ngoại, thông minh, tài năng. Những từ Hán Việt có công thức AA và BA theo trật tự ngược sẽ được coi là từ Hán Việt, chẳng hạn: dân tình, tà thuật, chủ quyền; tổ quốc, tự nhiên, học giả, động lực, hiền thê. Phan Ngọc nhận diện từ Hán Việt chỉ căn cứ vào hai tiêu chí trật tự cú pháp và dễ hiểu hay khó hiểu là chưa thật thỏa đáng. Tiêu chí dễ hiểu hay khó hiểu khá 1 Phan ngọc cho rằng trong tiếng Việt có 4 loại âm tiết, tác giả ký hiệu là A, B, C, D: - A là những âm tiết tự do, những âm tiết này làm từ độc lập như: gà, cỏ, sắc, già, cũ, mỏng - B là những âm tiết không tự do và không đơn nhất, đây là những âm tiết tự mình không phải là từ độc lập nhưng có thể được dùng để cấu tạo một loạt từ như: thiên tạo ra các từ thiên mệnh, thiên định - C là các âm tiết không tự do, đơn nhất và không láy âm như: a trong: a-xít, a-men, a-di-đà; qué, dả, tom, pheo trong gà qué, cỏ dả, già tom, tre pheo - D là âm tiết không tự do, đơn nhất, láy âm như: xỏ, chóc, đai, nhẽo trong xin xỏ, chim chóc, đất đai, nhạt nhẽo

20 mơ hồ. Thêm vào đó, nhận diện từ ngữ Hán Việt không chỉ căn cứ vào tiêu chí ngữ pháp, ngữ nghĩa mà còn phải có sự kết hợp về mặt ngữ âm và phong cách. 1.4. Phân loại từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt Dựa vào cấu trúc, từ ngữ Hán Việt được phân thành hai loại lớn: từ và ngữ cố định Hán Việt. 1.4.1. Từ Hán Việt Căn cứ vào phương thức cấu tạo, từ Hán Việt chia thành hai loại: từ Hán Việt đơn tiết và từ Hán Việt đa tiết. Từ Hán Việt đơn tiết hay còn gọi là từ đơn Hán Việt, từ Hán Việt đa tiết bao gồm từ ghép và từ láy Hán Việt. 1.4.1.1. Từ đơn Hán Việt Từ đơn Hán Việt là những từ có một từ tố do một âm tiết có nghĩa, độc lập tạo nên, chúng có khả năng hoạt động độc lập trong câu. Do đặc điểm loại hình mà trong tiếng Việt nhiều từ đơn Hán Việt thường có ranh giới trùng với âm tiết (tiếng), do đó chúng vừa là từ vừa là đơn vị cấu tạo từ và cấu tạo câu. Chẳng hạn, những từ như: nhân, nghĩa, đạo, tình, hiếu, hòa, trung, khuyết, sinh, sầu v.v. 1.4.1.2. Từ ghép Hán Việt Từ ghép là khái niệm được hầu hết các nhà Việt ngữ học công nhận, nhưng bên cạnh đó vẫn có một số tác giả nghi ngờ hoặc không chấp nhận khái niệm này. Bởi theo các tác giả này, tiếng là từ, các đơn vị lớn hơn tiếng (từ ghép, từ láy) được gọi là ngữ. Cách phân loại từ ghép tiếng Việt tuy có khác nhau giữa các nhà Việt ngữ học nhưng họ đều có điểm chung là tính đến mối quan hệ giữa các thành tố. Căn cứ vào quan hệ giữa các thành tố, từ ghép được chia thành từ ghép đẳng lập (từ ghép song song, từ ghép liên hợp) và từ ghép chính phụ. a. Từ ghép Hán Việt đẳng lập Từ ghép đẳng lập còn được gọi là từ ghép láy nghĩa, từ ghép nghĩa, từ ghép song song, từ ghép hợp nghĩa, từ ghép kết hợp, từ ghép nghĩa liên hợp, v.v. Đó là loại từ ghép được tạo thành bởi các thành tố đồng loại, theo quan hệ bình đẳng, để biểu thị ý nghĩa khái quát, tổng hợp và trừu tượng; trật tự của các thành tố không

21 chặt chẽ lắm. Cũng có thể nói, chúng là những từ tổ (ngữ) đã được từ vựng hóa [36; tr.146]. Trong từ ghép đẳng lập, về quan hệ ngữ pháp, các yếu tố có vai trò ngữ pháp ngang nhau; xét về ý nghĩa, các yếu tố hoặc là đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa hoặc là cùng có liên quan với nhau trong một trường nghĩa nhất định. Cơ chế chung của từ ghép đẳng lập thường là nghĩa của cả từ ghép rộng hơn, khái quát hơn so với nghĩa của các thành tố cộng lại. Chẳng hạn, giang sơn có nghĩa chỉ miền đất đai, trong quan hệ với dân tộc làm chủ và sống trên đó; nhân nghĩa có nghĩa là lòng thương người và tôn trọng lẽ phải, điều phải v.v. Nhìn chung, các yếu tố cấu thành từ ghép Hán Việt đẳng lập thường thấy là: (i) Từ ghép Hán Việt đẳng lập có nghĩa tương đồng như: thổ địa, ẩn tàng; (ii) Từ ghép Hán Việt đẳng lập có nghĩa tương quan như: giang sơn, sơn thủy, sơn hà, huynh đệ, phụ mẫu; (iii) Từ ghép Hán Việt đẳng lập có nghĩa tương phản như: sinh tử, thủy chung, thị phi. b. Từ ghép Hán Việt chính phụ Nếu từ ghép Hán Việt đẳng lập là loại từ ghép được tạo ra bằng hai thành tố Hán Việt theo quan hệ ngang nhau về kết cấu cũng như ý nghĩa thì từ ghép Hán Việt chính phụ ngược lại. Đây là kiểu từ ghép được cấu tạo bởi một thành tố chính và một thành tố phụ. Thành tố chính đóng vai trò là nòng cốt, trung tâm, thành tố phụ đóng vai trò hạn định, bổ sung, trần thuật hoặc chi phối. Chính nhờ nghĩa hạn định, bổ sung, trần thuật hoặc chi phối mà nghĩa của cả từ ghép trở nên cụ thể hơn. Chẳng hạn, từ ghép quốc ngữ gồm có hai thành tố: thành tố ngữ chỉ ngôn ngữ nói chung, không hạn định; thành tố quốc mang nghĩa hạn định, chỉ về quốc gia. Nhờ vậy, nó tạo cho cả từ ghép có nghĩa chuyên biệt hóa: chỉ tiếng nói chung của một quốc gia. Dựa vào quan hệ giữa các thành tố, từ ghép Hán Việt chính phụ được chia thành: (i) từ ghép Hán Việt chính phụ có quan hệ hạn định: quốc ngữ, quý nhân, quý vật, hiền thê; (ii) từ ghép Hán Việt chính phụ có quan hệ bổ sung: thuyết phục, thuyết hàng, thuyết khách; (iii) từ ghép Hán Việt chính phụ có quan hệ trần thuật: địa chấn, dân chúng; (iv) từ ghép Hán Việt chính phụ có quan hệ chi phối: quản nhiệm, quản sự, trực tính.

22 1.4.2. Ngữ cố định Hán Việt Ngữ thường được hiểu là hai hay nhiều từ kết hợp lại thành một nhóm theo một số phương thức nhất định, song chưa diễn đạt được một ý trọn vẹn, gọi là ngữ (còn gọi là cụm từ, đoản ngữ, phiến ngữ hay từ tổ) [7; tr.228]. Ngữ thường được chia ra thành hai loại: ngữ tự do và ngữ không tự do (ngữ cố định). Ngữ tự do bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của tất cả các thực từ tạo thành ngữ; mối liên hệ cú pháp của các yếu tố trong ngữ tự do là mối liên hệ linh hoạt và có sức sản sinh (kiểu như đọc sách). Còn trong ngữ không tự do thì tính độc lập về mặt từ vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng của ngữ trở nên giống như ý nghĩa của một từ riêng biêt ( ) [76; tr.176-177]. Trong luận văn này, ngữ được giới hạn trong ngữ cố định Hán Việt bao gồm: ngữ định danh và thành ngữ Hán Việt. Theo Nguyễn Thiện Giáp: Ngữ định danh là những cụm từ biểu thị các sự vật, hiện tượng hay khái niệm nào đó của thực tế. Nó bao gồm những cụm từ thường được gọi là từ ghép như: xe đạp, máy tiện, cá vàng, cà chua, áo dài v.v và những cụm từ thường được gọi là ngữ cố định như đường đồng mức, phương nằm ngang, máy hơi nước v.v [19; tr.70]. Các tác giả Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt đã chia cụm từ cố định trong tiếng Việt thành hai loại: ngữ cố định và thành ngữ. Trong đó, ngữ cố định tiếp tục được phân thành: ngữ cố định định danh và quán ngữ. Theo các tác giả này, tên gọi ngữ cố định định danh chưa thật sự chặt chẽ: Tên gọi này chúng ta tạm dùng (vì nó chưa thật chặt về nội dung) để chỉ những đơn vị vốn ổn định về cấu trúc và ý nghĩa hơn các quán ngữ rất nhiều, nhưng lại chưa có được ý nghĩa mang tính hình tượng như thành ngữ [11; tr.162]. Chẳng hạn: quân sư quạt mo, mắt ốc nhồi, mắt bồ câu, má bánh đúc, tóc rễ tre, kỷ luật sắt v.v, thực chất đó là những cụm từ cố định, định danh, gọi tên sự vật. Chúng tôi tiếp thu nội hàm khái niệm ngữ cố định định danh của các tác giả Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt và khái niệm ngữ định danh của Nguyễn Thiện

23 Giáp nhưng chỉ ở vế sau, nghĩa là những cụm từ cố định nhưng chưa phải là thành ngữ. Do đó, trong luận văn này, những trường hợp mà lâu nay ngữ pháp truyền thống gọi là từ ghép như: ái ân, nhân hậu, nhân đạo, phu thê v.v, chúng tôi vẫn giữ nguyên tên gọi; còn những trường hợp như đạo cang thường, nghĩa cang thường, thủy chung như nhứt v.v..., chúng tôi gọi là ngữ định danh. Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt ở trong câu [76; tr.271]. Cũng như thành ngữ thuần Việt, thành ngữ Hán Việt có kết cấu chặt chẽ và ổn định, có chức năng định danh và được tái hiện trong lời nói. Nghĩa của thành ngữ Hán Việt là nghĩa khái quát của các thành tố, mang tính biểu trưng và gợi tả. Đó là các thành ngữ như: quân tử nhất ngôn, họa phúc vô môn, họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm v.v 1.5. Sự khác biệt giữa từ ngữ Hán Việt và từ ngữ thuần Việt đẳng nghĩa Từ đẳng nghĩa là hiện tượng hai yếu tố ngôn ngữ ngang nghĩa nhau nhưng lại khác nhau về nguồn gốc. Từ Hán Việt và từ thuần Việt được gọi là đẳng nghĩa khi chúng cùng biểu thị những sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất tương đương nhau. Chẳng hạn, huynh đệ (Hán Việt) = anh em (thuần Việt), phụ mẫu (Hán Việt) = cha mẹ (thuần Việt) v.v Nếu trong ngôn ngữ có hiện tượng hai từ đồng nghĩa hoàn toàn sẽ xảy ra hiện tượng tranh chấp, chúng sẽ loại trừ, triệt tiêu nhau, nếu sử dụng từ này thì không sử dụng từ kia. Tuy nhiên, để cùng song tồn, chúng phải cạnh tranh nhau về nhiều mặt: sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm và màu sắc phong cách. 1.5.1. Về sắc thái ý nghĩa Từ ngữ Hán Việt thường có sắc thái ý nghĩa trừu tượng. Chẳng hạn, thảo mộc, sơn hà, giang sơn, thiên địa v.v Từ ngữ thuần Việt thường có sắc thái ý nghĩa cụ thể hơn. Chẳng hạn, cỏ cây, núi sông, sông núi, trời đất v.v